VẾT THƯƠNG CHỮA LÀNH (ĐTC Phanxicô, 11/04/2021)

tháng 4 14, 2024 |

“Sau khi sự bình an trong lòng được phục hồi và sự tha thứ nâng các môn đệ đứng dậy, đây là ân sủng thứ ba mà Chúa Giêsu thương xót các môn đệ: Ngài ban cho họ những vết thương. Từ những vết thương đó, chúng ta được chữa lành (x. 1 Pt 2, 24; Is 53, 5).
Nhưng làm thế nào để một vết thương có thể chữa lành chúng ta? Thưa: với lòng thương xót. Trong những vết thương đó, giống như Tông đồ Tôma, chúng ta chạm vào bằng bàn tay của mình để thấy rằng Thiên Chúa yêu thương chúng ta đến tận sâu thẳm, rằng Người đã biến vết thương của chúng ta thành của riêng Người, rằng Người đã mang những yếu đuối của chúng ta vào cơ thể của Người. Những vết thương này là những kênh thông thoáng giữa Ngài và chúng ta, là những kênh thương xót đổ xuống trên những đau khổ của chúng ta. Những vết thương này là những con đường mà Thiên Chúa đã mở rộng cho chúng ta để chúng ta bước vào sự dịu dàng của Ngài và chạm vào Nhiệm thể Ngài bằng đôi tay của chúng ta. Và chúng ta không còn chút nghi ngờ nào về lòng thương xót của Người. Bằng cách yêu mến, hôn lên vết thương của Người, chúng ta khám phá ra rằng tất cả những nhược điểm của chúng ta đều được hoan nghênh trong sự dịu dàng của Người. Điều này xảy ra trong mọi Thánh lễ, nơi Chúa Giêsu dâng hiến cho chúng ta Thân thể bị thương và đã phục sinh của Người: chúng ta chạm vào Người và Người chạm vào cuộc đời của chúng ta. Và điều đó làm cho Thiên đường xuống trong chúng ta.
Những vết thương phát sáng của Người xuyên thủng bóng tối mà chúng ta mang bên trong. Và chúng ta, giống như Thánh Tôma, tìm thấy Chúa, chúng ta khám phá ra Ngài thân mật và gần gũi, và xúc động khi nói với Ngài: “Lạy Chúa và là Chúa của con!” (Ga 20, 28). Và mọi thứ đều bắt nguồn từ đây, từ ơn của người được thương xót. Từ đây bắt đầu cuộc hành trình của Kitô hữu. Mặt khác, nếu chúng ta dựa vào khả năng của mình, vào hiệu quả của các công trình và dự án của chúng ta, chúng ta sẽ không tiến xa được. Chỉ khi chúng ta chào đón tình yêu của Thiên Chúa, chúng ta mới có thể ban tặng một điều gì đó mới mẻ cho thế giới.” (ĐTC Phanxicô, 11/04/2021)
Xem tiếp…

DŨNG CẢM (ĐTC Phanxicô, giáo lý 10/04/2024)

tháng 4 14, 2024 |

“…Dũng cảm giúp chúng ta thành công trong cuộc sống. Người xưa – cả các triết gia Hy Lạp lẫn các nhà thần học Kitô giáo – đã nhìn nhận sự phát triển hai mặt trong nhân đức dũng cảm: một mặt thụ động, một mặt tích cực.
Đầu tiên là hướng vào bên trong chúng ta. Có những kẻ thù nội tâm mà chúng ta phải đánh bại, chúng mang tên lo lắng, thống khổ, sợ hãi, tội lỗi: tất cả những sức mạnh khuấy động sâu thẳm nội tâm chúng ta và trong một số tình huống làm chúng ta tê liệt. Có bao nhiêu chiến binh không chịu nổi ngay trước khi bắt đầu cuộc thách thức! Bởi vì họ không nhận thức được những kẻ nội thù này. Dũng cảm trước hết là chiến thắng chính mình. Hầu hết những nỗi sợ hãi nảy sinh trong chúng ta đều không có thực và hoàn toàn không trở thành hiện thực. Vậy thì tốt hơn là hãy cầu xin Chúa Thánh Thần và đối đầu với mọi sự với lòng kiên nhẫn: giải quyết từng vấn đề một, tùy theo khả năng của chúng ta, nhưng không đơn độc! Chúa ở cùng chúng ta nếu chúng ta tin tưởng vào Người và chân thành tìm kiếm điều tốt lành. Khi đó, trong mọi tình huống, chúng ta có thể trông cậy vào sự quan phòng của Chúa để che chở và trang bị cho chúng ta.
Và sau đó là chuyển động thứ hai của nhân đức dũng cảm, lần này có tính chất tích cực hơn. Ngoài những thử thách bên trong còn có những kẻ thù bên ngoài, đó là những thử thách của cuộc sống, những bắt bớ, những khó khăn mà chúng ta không ngờ tới và làm chúng ta ngạc nhiên. Thật vậy, chúng ta có thể cố gắng dự đoán điều gì sẽ xảy ra với mình, nhưng ở một mức độ lớn hơn, thực tại được tạo thành từ những sự kiện không thể lường trước được, và ở vùng biển này đôi khi con thuyền của chúng ta bị sóng đánh trôi. Sự dũng cảm khi đó làm cho chúng ta trở thành những thủy thủ kiên cường, không sợ hãi hay nản lòng…” (ĐTC Phanxicô, giáo lý 10/04/2024)
Xem tiếp…

CHÚA PHỤC SINH BAN THÁNH THẦN THA TỘI (ĐTC Phanxicô, 11/04/2021)

tháng 4 14, 2024 |

“Chúa Giêsu thương xót các môn đệ bằng cách ban Chúa Thánh Thần cho họ. Ngài ban Thánh Thần để các ngài có năng quyền tha tội (Ga 20, 22-23). Các môn đệ là những người có tội, họ đã chạy trốn bỏ rơi Thầy. Và tội lỗi ám ảnh, cái ác có giá của nó. Tội lỗi của chúng ta, theo Thánh Vịnh (xem 51: 5), luôn ở trước mặt chúng ta. Chúng ta không thể hủy bỏ nó một mình. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể loại trừ, chỉ có Ngài với lòng thương xót mới làm cho chúng ta thoát ra khỏi những đau khổ sâu xa nhất của chúng ta.
Giống như những môn đệ đó, chúng ta cần cho phép mình được tha thứ, và nói từ tận đáy lòng: “Lạy Chúa, xin thứ tha tội lỗi con”. Hãy mở rộng trái tim để cho phép mình được tha thứ. Sự tha thứ trong Chúa Thánh Thần là ân sủng Phục sinh để được phục sinh từ bên trong. Chúng ta hãy xin ơn đón nhận Người, đón nhận bí tích tha tội. Và xin ơn để hiểu rằng ở trung tâm của bí tích hòa giải không phải là chúng ta với tội lỗi của mình, mà là Thiên Chúa với lòng thương xót của Người.
Chúng ta không đi xưng tội để suy sụp, nhưng để làm cho chúng ta được phục hồi. Chúng ta cần đến bí tích hòa giải rất nhiều, tất cả mọi người đều cần. Chúng ta cần bí tích hòa giải như những đứa trẻ nhỏ, mỗi khi ngã, chúng cần được bố mẹ nâng lên. Chúng ta cũng thường xuyên sa ngã. Và bàn tay của Chúa Cha đã sẵn sàng để giúp chúng ta đứng dậy và tiếp tục bước đi. Bàn tay an toàn và đáng tin cậy này là bí tích hòa giải. Đó là Bí tích nâng chúng ta lên, không để chúng ta nằm trên mặt đất mà khóc trên những sàn cứng của những sa ngã. Đó là bí tích của sự phục sinh, đó là lòng thương xót thuần khiết. Và bất cứ ai nhận được bí tích hòa giải phải làm cho chính mình cảm nhận được sự ngọt ngào của lòng thương xót.
Và đây là cách của các cha giải tội khi tiếp nhận lời xưng thú của mọi người: hãy làm cho mọi người cảm nhận được sự ngọt ngào của lòng thương xót của Chúa Giêsu, Đấng đã tha thứ mọi sự. Chúa tha thứ mọi sự.” (ĐTC Phanxicô, 11/04/2021)
Xem tiếp…

PHỤC VỤ CỦA MỤC TỬ (ĐHY Cantalamessa, tĩnh tâm giáo triều, 08/04/2022, Giuse Phan Văn Phi O.Cist chuyển ngữ)

tháng 4 14, 2024 |


“…Đôi khi, sự phục vụ tốt nhất không bao gồm việc phục vụ, mà là việc cho phép mình được phục vụ, như Đức Giêsu, đôi khi Người cũng sẵn sàng ngồi vào bàn ăn và được người khác rửa chân (x. Lc 7,38) và sẵn lòng đón nhận những sự phục vụ mà một số phụ nữ quảng đại và giàu tình cảm đã giúp đỡ Người trong hành trình rao giảng của Người (x. Lc 8,2-3).
Có một điều khác cần phải nói về sự phục vụ của những người mục tử, và đó là điều này: việc phục vụ anh chị em, dù quan trọng và thánh thiện đến đâu, cũng không phải là điều đầu tiên và cũng không phải là điều cốt yếu; trước hết là sự phục vụ Thiên Chúa. Trước hết, Đức Giêsu là “tôi tớ của Giavê Thiên Chúa” và sau đó là tôi tớ của loài người. Đức Giêsu đã nhắc nhở cha mẹ mình rằng: “Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?” (Lc 2,49). Người đã không ngần ngại làm thất vọng đám đông, những kẻ đến nghe Người giảng dạy, và được chữa lành, Người đã bất ngờ bỏ họ ra đi, để lui vào nơi hoang vắng mà cầu nguyện (x. Lc 5,16).
Ngày nay, ngay cả việc phục vụ Tin Mừng cũng bị suy yếu bởi nguy cơ tục hóa. Người ta quá dễ dàng cho rằng mọi sự phục vụ nhân loại cũng đều là phục vụ Thiên Chúa. Thánh Phaolô nói về việc phục vụ Thần Khí [diakonia Pneumatos] (2Cr 3,8), mà các thừa tác viên của Tân Ước được đặt ra để phục vụ. Tinh thần phục vụ phải được thể hiện nơi các mục tử qua việc phục vụ Thần Khí!
Cũng giống như các linh mục, theo ơn gọi, được mời gọi để phục vụ theo “Thần Khí”, sẽ không phải là phục vụ anh chị em của mình nếu ngài làm cho họ hàng trăm hàng ngàn việc phục vụ khác, nhưng lại bỏ qua phận vụ duy nhất mà người ta có quyền mong đợi ở vị linh mục, điều mà chỉ linh mục mới có thể cho trao ban cho họ. Theo Sách Thánh thì linh mục “được đặt lên làm đại diện cho loài người, trong các mối tương quan với Thiên Chúa” (Hr 5,1). Khi vấn đề này lần đầu tiên nảy sinh trong Hội thánh, Phêrô đã giải quyết bằng cách nói: “Chúng tôi mà bỏ việc rao giảng Lời Thiên Chúa để lo việc ăn uống, là điều không phải… Còn chúng tôi, chúng tôi sẽ chuyên lo cầu nguyện và phục vụ Lời Thiên Chúa” (Cv 6,2-4).
Trên thực tế, có một số vị mục tử đã quay trở lại với việc lo ăn uống. Họ bận rộn giải quyết mọi vấn đề về vật chất, kinh tế, hành chính, đôi khi thậm chí là nông nghiệp nữa, điều vẫn tồn tại trong cộng đoàn của họ (dù những điều này có thể dễ dàng để cho người khác quan tâm), và họ bỏ bê công việc phục vụ đích thực không thể thay thế của mình. Việc phục vụ Lời Chúa đòi hỏi có nhiều thời giờ để đọc sách, nghiên cứu, cầu nguyện…” (ĐHY Cantalamessa, tĩnh tâm giáo triều, 08/04/2022, Giuse Phan Văn Phi O.Cist chuyển ngữ)
Xem tiếp…

BÌNH AN CHO ANH EM (ĐTC Phanxicô, 11/04/2021)

tháng 4 13, 2024 |

“Ngay từ đầu, Chúa Giêsu mang lại cho các môn đệ ơn bình an. Những môn đệ này đã rất đau khổ. Họ đã nhốt mình trong nhà vì sợ hãi, vì sợ bị bắt và kết cục cũng sẽ như Thầy. Nhưng không chỉ đóng cửa nhà, các ngài còn đóng kín cửa tâm hồn trong sự hối hận. Các ngài đã bỏ rơi và chối Chúa Giêsu. Các ngài cảm thấy mình chẳng có khả năng gì, chẳng được ơn ích gì, và sai lầm. Chúa Giêsu

đến và lặp lại hai lần: “Bình an cho anh em!”. Người không mang lại một sự bình an giúp loại bỏ những vấn đề bên ngoài, mà là một sự bình an giúp khơi dậy sự tự tin bên trong. Không phải bình an bên ngoài, mà là bình an trong lòng. Người nói: “Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em.” (Ga 20:21). Như thể Người đang nói: “Thầy sai anh em đi bởi vì Thầy tin tưởng anh em”. Những môn đệ thất vọng đó được làm hòa với chính mình.
Sự bình an của Chúa Giêsu khiến họ chuyển từ hối hận sang sứ mệnh. Trên thực tế, sự bình an của Chúa Giêsu làm phát sinh sứ mệnh. Bình an của Chúa không phải là sự yên tĩnh, nó không phải là sự nhàn nhã, nhưng là sự đi ra khỏi chính mình. Sự bình an của Chúa Giêsu giải thoát khỏi sự khép kín làm tê liệt, và phá vỡ xiềng xích giam giữ trái tim. Và các môn đệ cảm thấy đầy lòng thương xót: họ cảm thấy rằng Thiên Chúa không lên án họ, không sỉ nhục họ, nhưng tin tưởng vào họ. Vâng, Người tin vào chúng tôi nhiều hơn chúng tôi tin vào chính mình. “Ngài yêu chúng ta nhiều hơn chúng ta yêu chính chúng ta” (xem Thánh John Henry Newman, Suy niệm và Tôn sùng, III, 12:2). Đối với Chúa không ai bất tài, không ai vô dụng, không ai bị loại trừ. Hôm nay Chúa Giêsu lặp lại một lần nữa: “Bình an cho anh em, là những người quý giá trong mắt Thầy. Bình an cho anh em, là những người quan trọng với Thầy. Bình an cho anh em, là những người có sứ mệnh. Không ai có thể làm điều đó thay cho anh em. Anh em là những người không thể thay thế được. Và Thầy tin vào anh em”. (ĐTC Phanxicô, 11/04/2021)
Xem tiếp…

PHỤC VỤ (ĐHY Cantalamessa, tĩnh tâm giáo triều ngày 08/04/2022)

tháng 4 13, 2024 |


“Chúng ta cần phải tìm hiểu sâu hơn ý nghĩa của hạn từ “phục vụ”, để nó có thể trở thành hiện thực trong đời sống chúng ta, và chúng ta không chỉ giới hạn bản thân trong những từ ngữ hoa mỹ mà thôi.
Tự bản chất, sự phục vụ không phải là một nhân đức. Chúng ta không tìm thấy hạn từ phục vụ [diakonía] nào được gọi là một nhân đức, hoặc

được gọi là hoa quả của Thần Khí, như trong danh mục mà các sách Tân Ước đã nêu ra. Thật vậy, thậm chí có người còn nói về việc phục vụ cho tội lỗi nữa (x. Rm 6,16), hoặc phục vụ các ngẫu tượng (x. 1Cr 6,9), mà chắc chắn đó không phải là một việc phục vụ tốt đẹp. Tự bản chất, việc phục vụ là trung lập, không tốt không xấu: nó chỉ nhấn mạnh đến điều kiện trong cuộc sống, hoặc cách thức tương quan với những người khác, trong công việc của một người, một sự lệ thuộc liên quan đến những người khác. Thậm chí việc phục vụ có thể còn là một điều tồi tệ nữa, nếu được thực hiện vì bị ép buộc (như trong chế độ nô lệ), hoặc chỉ vì sở thích và tư lợi.
Tất cả mọi người thời nay đều nói về sự phục vụ; mọi người đều nói rằng họ đang ở trong tình trạng phục vụ: người thương gia phục vụ các khách hàng; hoặc người ta nói đến tất cả những người thực hiện một chức năng xã hội mà họ cung cấp dịch vụ hoặc họ phục vụ. Nhưng rõ ràng là việc phục vụ mà Tin Mừng nói tới thì lại là một điều hoàn toàn khác, cho dù nó không loại trừ sự phục vụ theo kiểu người phàm, và cũng không nhất thiết phải loại bỏ sự phục vụ như cách hiểu của thế gian. Sự khác biệt hoàn toàn chính là ở động cơ và thái độ bên trong nội tâm mà việc phục vụ đó được thực hiện.
Chúng ta hãy đọc lại trình thuật Tin Mừng về việc rửa chân, để xem Đức Giêsu thực hiện với tinh thần nào và điều gì đã khiến Người hành động: “Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1). Phục vụ không phải là một nhân đức, nhưng bắt nguồn từ các nhân đức, và trước hết là từ lòng bác ái; quả thật, đó là cách diễn đạt tuyệt vời nhất của điều răn mới. Phục vụ là một cách thể hiện tình yêu thương “không tìm tư lợi” (x. 1Cr 13,5), mà là vì yêu thương tha nhân, không tìm kiếm bản thân, mà còn là của sự cho đi. Nói tóm lại, đó là sự tham gia và bắt chước hành động của Thiên Chúa, Đấng là “sự Thiện Tuyệt Đối”, chỉ có thể yêu thương và làm điều thiện một cách vô vị lợi, một cách hoàn toàn nhưng không.
Vì lý do này, trái ngược với tinh thần thế gian, việc phục vụ theo Tin Mừng thì không phải chỉ thích hợp với những người thấp kém, những người thiếu thốn, cho những người không có gì cả; nhưng đúng hơn, việc phục vụ Tin Mừng thuộc về bất cứ ai giàu có, cho bất cứ ai có địa vị cao, cho bất kỳ ai có của. Về phương diện phục vụ thì “ai được giao phó nhiều thì sẽ bị đòi hỏi nhiều hơn” (Lc 12,48). Vì lẽ đó, Đức Giêsu nói rằng, trong Hội thánh của Người: “Ai lớn nhất trong anh em, thì phải nên như người nhỏ tuổi nhất, và kẻ làm đầu thì phải nên như người phục vụ” (Lc 22,26), “ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người” (Mc 10,44). Vị Giáo sư của tôi là Ceslas Spicq ở đại học Freiburg [Thụy Sĩ], về khoa chú giải Kinh Thánh Tân Ước, cho biết rằng, việc rửa chân phục vụ chính là “bí tích của thẩm quyền Kitô giáo - il sacramento dell’autorità cristiana”.
Bên cạnh sự vô vị lợi, việc phục vụ còn thể hiện một đặc tính tuyệt vời khác của đức ái thần linh [agápe divina]: đó là sự khiêm tốn. Lời của Đức Giêsu: “Anh em phải rửa chân cho nhau” có nghĩa là: anh em phải làm cho nhau những việc phục vụ bác ái khiêm nhường. Lòng bác ái và sự khiêm nhường cùng nhau tạo nên sự phục vụ theo Tin Mừng. Đức Giêsu đã từng nói: “Hãy học nơi tôi vì tôi hiền lành và khiêm nhường” (Mt 11,29). Nhưng nếu bạn nghĩ về điều đó, thì Đức Giêsu đã làm gì để gọi mình là “khiêm nhường”? Có phải Người đã đánh giá thấp bản thân chăng? hay Người đã nói một cách khiêm tốn về con người của mình chăng? Ngược lại, trong chính đoạn Tin Mừng về việc rửa chân, Người nói rằng Người là “Thầy và là Chúa” (x. Ga 13,13).
Vậy Đức Giêsu đã làm gì để gọi mình là “khiêm tốn”? Người đã cúi xuống phục vụ! Ngay từ lúc nhập thể, Người đã không làm gì khác ngoài việc hạ mình xuống, hạ xuống đến mức thấp nhất, khi chúng ta thấy Người quỳ gối rửa chân cho các tông đồ. Hẳn là giữa các thiên thần phải run sợ làm sao, khi thấy Con Thiên Chúa đang hạ mình xuống như vậy, Đấng mà họ thậm chí không dám ngước nhìn Người (x. 1Pr 1,12). Đấng Tạo Hóa đã quỳ gối trước các thụ tạo! Thánh Bênađô đã thường tự nhủ lòng mình rằng: “Hỡi đồ tro bụi kiêu hãnh, ngươi đáng xấu hổ biết bao! Thiên Chúa thì hạ mình xuống, còn ngươi thì lại tìm cách đưa mình lên!” (San Bernardo di Chiaravalle, Lodi della Vergine, 1,8). Được hiểu theo cách này - nghĩa là hạ mình để phục vụ - thì đức khiêm nhường thực sự là con đường tuyệt hảo của việc nên giống Thiên Chúa và noi gương Thánh Thể trong đời sống chúng ta.” (ĐHY Cantalamessa, tĩnh tâm giáo triều ngày 08/04/2022)
Xem tiếp…

BỎ LẠI THẤT BẠI SAU LƯNG, TIẾN LÊN, ĐẾN GALILÊ… (ĐTC Phanxicô, giảng lễ Vọng Phục Sinh 2023:)

tháng 4 11, 2024 |

“…đây là điều mà Lễ Vượt Qua của Chúa hoàn thành: cuộc vượt qua của Người thúc đẩy chúng ta tiến tới, bỏ lại sau lưng cảm giác thất bại, lăn đi tảng đá mồ mả mà chúng ta thường giam hãm niềm hy vọng của mình, và tin tưởng hướng về tương lai, vì Chúa Kitô đã sống lại và đã thay đổi chiều hướng của lịch sử. Tuy nhiên, để làm được điều này, Lễ Vượt Qua của Chúa đưa chúng ta trở lại với ân
sủng của quá khứ của chính chúng ta; nó đưa chúng ta trở lại Galilê, nơi bắt đầu câu chuyện tình yêu của chúng ta với Chúa Giêsu, nơi xảy ra cuộc gọi đầu tiên. Nói cách khác, nó yêu cầu chúng ta sống lại khoảnh khắc đó, hoàn cảnh đó, kinh nghiệm mà trong đó chúng ta đã gặp Chúa, cảm nghiệm được tình yêu của Người, và nhận được một cách nhìn mới rạng rỡ về chính mình, về thế giới xung quanh chúng ta, và chính mầu nhiệm của cuộc sống.
Để sống lại, để bắt đầu lại, để tiếp tục cuộc hành trình, chúng ta luôn cần trở về Galilê, nghĩa là quay trở lại, không phải về một Chúa Giêsu trừu tượng hay một lý tưởng xa xôi, mà là về ký ức sống động, cụ thể và sờ thấy được của lần đầu tiên chúng ta gặp gỡ Ngài. Vâng, thưa anh chị em, để tiến tới chúng ta cần phải quay lại, để ghi nhớ; để có hy vọng, chúng ta cần làm sống lại ký ức của mình. Đây là những gì chúng ta được yêu cầu làm: đó là ghi nhớ và tiến lên! Nếu anh chị em tìm lại được tình yêu ban đầu, sự ngạc nhiên và niềm vui của cuộc gặp gỡ với Chúa, anh chị em sẽ tiếp tục tiến lên. Vì vậy, hãy ghi nhớ, và tiếp tục tiến về phía trước. Hãy ghi nhớ, và tiếp tục tiến về phía trước.
Hãy nhớ đến Galilê của chính anh chị em và tiến về phía đó, vì đó là “nơi” mà anh chị em đã biết Chúa Giêsu một cách cá vị, nơi Ngài không còn là một nhân vật khác đến từ một quá khứ xa xôi, mà là một con người đang sống: không phải là một Thiên Chúa xa xôi nào đó mà là Thiên Chúa là Đấng hiện hữu, ở bên cạnh anh chị em, Đấng hơn ai hết biết rõ anh chị em và yêu mến anh chị em. Thưa anh chị em, hãy nhớ đến Galilê, Galilê của anh chị em và lời mời gọi dành cho anh chị em. Hãy nhớ đến Lời của Thiên Chúa, Đấng đã phán trực tiếp với anh chị em vào một thời điểm chính xác.
Hãy nhớ kinh nghiệm mạnh mẽ đó về Thánh Linh; niềm vui lớn lao của sự tha thứ đã trải qua sau một lời xưng thú tội lỗi; khoảnh khắc cầu nguyện mãnh liệt và khó quên đó; ánh sáng đó đã thắp lên trong anh chị em và thay đổi cuộc đời anh chị em; cuộc gặp gỡ đó, cuộc hành hương đó. Mỗi người chúng ta đều biết nơi phục sinh nội tâm của mình, nơi là khởi đầu và là nền tảng đó, nơi mà mọi thứ đã thay đổi. Chúng ta không thể chôn vùi điều này trong nấm mồ quá khứ; Chúa Phục Sinh mời gọi chúng ta trở lại đó để cử hành Lễ Phục Sinh. Hãy nhớ Galilê của anh chị em. Hãy nhắc nhở bản thân mình.
Hôm nay, chúng ta hãy sống lại ký ức đó. Hãy quay trở lại cuộc gặp gỡ đầu tiên đó. Hãy nghĩ lại xem nó như thế nào và dựng lại bối cảnh, thời gian và địa điểm. Hãy ghi nhớ những cảm xúc và cảm giác; hãy ngắm nhìn màu sắc và thưởng thức hương vị của nó. Bởi vì, anh chị em biết đấy, chính khi anh chị em quên đi mối tình đầu, khi anh chị em không thể nhớ lại cuộc gặp gỡ đầu tiên đó, thì bụi bặm bắt đầu phủ lên trái tim anh chị em. Đó là khi anh chị em trải qua nỗi buồn; và giống như các môn đệ, anh chị em nhìn thấy tương lai trống rỗng, giống như một ngôi mộ với một tảng đá phong tỏa mọi hy vọng.
Tuy nhiên, thưa anh chị em, hôm nay sức mạnh của Lễ Phục Sinh kêu gọi anh chị em lăn đi mọi tảng đá của sự thất vọng và ngờ vực. Chúa là chuyên gia trong việc đẩy lùi những tảng đá tội lỗi và sợ hãi. Người muốn soi sáng ký ức thiêng liêng của anh chị em, ký ức đẹp nhất của anh chị em và khiến anh chị em hồi tưởng lại cuộc gặp gỡ đầu tiên với Ngài. Hãy ghi nhớ và tiếp tục tiến về phía trước. Hãy trở về với Người và khám phá lại ân sủng phục sinh của Thiên Chúa nơi anh chị em.
Anh chị em thân mến, chúng ta hãy theo Chúa Giêsu đến Galilê, gặp gỡ Người và thờ phượng Người ở đó, nơi Người đang chờ đợi mỗi người chúng ta. Chúng ta hãy làm sống lại vẻ đẹp của khoảnh khắc đó khi chúng ta nhận ra rằng Ngài đang sống và chúng ta tôn vinh Ngài làm Chúa của cuộc đời chúng ta. Chúng ta hãy trở lại Galilê. Mỗi người chúng ta hãy trở về Galilê của chính mình, về nơi mà chúng ta đã gặp Người lần đầu tiên. Chúng ta hãy vươn lên trong cuộc sống mới!”
Xem tiếp…

THƯƠNG XÓT VÀ THA THỨ (ĐTC Phanxicô, 03/04/2022)

tháng 4 09, 2024 |


“Chúng ta thấy điều này ở người phụ nữ bị bắt quả tang ngoại tình. Tình cảnh của cô tưởng chừng như vô vọng, nhưng rồi một chân trời mới đầy bất ngờ đã mở ra trước mắt. Cô đã bị sỉ nhục và đang chờ sự phán xét tàn nhẫn và sự trừng phạt nghiêm khắc. Tuy nhiên, trước sự ngạc nhiên của cô, cô thấy mình được Thiên Chúa tha bổng, và chỉ cho cô đến một tương lai mà cô không hề đoán trước: “Không ai lên án cô sao?” - Chúa Giêsu nói với cô ấy - “Tôi cũng không kết án chị đâu; hãy đi và đừng phạm tội nữa” (Ga 8,10-11).
Thật là khác biệt giữa Chúa và những kẻ tố cáo người phụ nữ! Họ viện dẫn Kinh thánh để kết án cô ấy; Chúa Giêsu, chính Ngôi Lời của Thiên Chúa, đã hoàn toàn phục hồi người phụ nữ, khôi phục lại hy vọng của cô ấy. Từ câu chuyện này, chúng ta học được rằng mọi phán xét không được truyền cảm hứng và cảm động bởi lòng bác ái sẽ chỉ khiến mọi thứ trở nên tồi tệ hơn cho những người nhận được phán xét ấy. Mặt khác, Chúa luôn có chỗ cho cơ hội thứ hai; Ngài luôn có thể tìm thấy những con đường dẫn đến giải thoát và cứu rỗi.
Sự tha thứ đã thay đổi cuộc đời người phụ nữ đó. Thương xót và khốn khổ bao trùm. Xót xa và khốn khó gặp nhau ở đó, cuộc đời người phụ nữ đã thay đổi. Chúng ta thậm chí có thể suy đoán liệu sau khi được Chúa Giêsu tha thứ, cô ấy có thể lần lượt tha thứ cho người khác hay không. Có lẽ cô ấy thậm chí đã đi xa đến mức xem những người tố cáo cô ấy không còn là những người đàn ông thô bạo và gian ác nữa, mà là phương tiện dẫn đến cuộc gặp gỡ của cô ấy với Chúa Giêsu.
Chúa cũng muốn chúng ta, các môn đệ, Hội Thánh của Ngài, cũng như những ai được Ngài tha thứ, trở thành những chứng nhân hòa giải không mệt mỏi. Nhân chứng của một vị Chúa mà từ “vô phương cứu chữa” không hề tồn tại, một vị Chúa luôn tha thứ. Chúa luôn tha thứ. Chúng ta là những người cảm thấy mệt mỏi khi cầu xin sự tha thứ. Thiên Chúa của chúng ta là một Thiên Chúa không bao giờ ngừng tin tưởng vào chúng ta và luôn cho chúng ta cơ hội để bắt đầu lại. Không có tội lỗi hay thất bại nào mà chúng ta có thể mang lại trước mặt Người mà không thể trở thành cơ hội để bắt đầu sống một cuộc sống mới và khác biệt dưới ngọn cờ của lòng thương xót. Không có tội lỗi nào mà không thể được đối xử theo cách này. Chúa tha thứ cho tất cả mọi thứ. Ngài tha thứ mọi tội lỗi.
Đây là Chúa Giêsu. Chúng ta thực sự biết Ngài khi chúng ta cảm nghiệm được sự tha thứ của Ngài, và khi, giống như người phụ nữ trong Phúc âm, chúng ta khám phá ra rằng Chúa đến với chúng ta qua vết thương nội tâm của chúng ta. Đó quả thật là nơi Chúa rất thích làm cho mình được biết đến, vì Người đến không phải vì những người khỏe mạnh mà là vì những ai đau yếu (x. Mt 9,12). Hôm nay, người phụ nữ đó, người đã tìm thấy lòng thương xót trong lúc khốn khổ của mình và đã ra đi được chữa lành nhờ sự tha thứ của Chúa Giêsu, mời gọi chúng ta, với tư cách là Giáo hội, trở lại trường học Tin Mừng, để học hỏi từ Thiên Chúa của niềm hy vọng, Đấng không ngừng làm chúng ta ngạc nhiên.
Nếu chúng ta noi gương Ngài, chúng ta sẽ không có khuynh hướng tập trung vào việc lên án tội lỗi, nhưng tập trung vào việc lên đường với tình yêu thương để tìm kiếm tội nhân. Chúng ta không chỉ bằng lòng với những người đã có mặt, nhưng sẽ đi tìm những người vắng mặt. Chúng ta sẽ không quay lại việc chỉ tay lên án, mà sẽ bắt đầu lắng nghe. Chúng ta sẽ không loại bỏ những người bị khinh thường, nhưng xem trọng nhất là những người mà những người khác coi là kém nhất. Thưa anh chị em, đây là điều Chúa Giêsu dạy chúng ta ngày nay qua gương của Ngài. Chúng ta hãy để cho Ngài làm chúng ta ngạc nhiên. Chúng ta hãy hân hoan chào đón tin vui mà Ngài mang đến.” (ĐTC Phanxicô, 03/04/2022)
Xem tiếp…

CÁC THÁNH (ĐTC Phanxicô, 07/04/2021)

tháng 4 09, 2024 |


 “...Cầu nguyện luôn được tái sinh: mỗi lần chúng ta nắm tay nhau và mở rộng tâm hồn với Thiên Chúa, chúng ta thấy mình được đồng hành với các vị thánh vô danh và các vị thánh được công nhận, những vị đang cầu nguyện với chúng ta và đang cầu bầu cho chúng ta như những anh chị em đã đi trước chúng ta trong cùng cuộc phiêu lưu của con người. Không có đau buồn nào trong Giáo Hội phát sinh trong cô đơn, không có nước mắt nào rơi trong quên lãng, vì mọi người cùng thở và tham dự vào một ơn thánh chung. Không phải ngẫu nhiên mà trong Giáo Hội cổ thời, người ta được chôn cất trong những khu vườn xung quanh một tòa nhà thánh thiêng, như để nói rằng, một cách nào đó, đoàn ngũ những người đi trước chúng ta đang tham dự vào mọi Bí tích Thánh Thể. Cha mẹ và ông bà của chúng ta ở đó, các cha mẹ đỡ đầu của chúng ta ở đó, các giáo lý viên và các thầy cô khác của chúng ta ở đó… Đức tin được truyền lại, được truyền tải, mà chúng ta đã nhận được. Cùng với đức tin, cách cầu nguyện và việc cầu nguyện đã được truyền lại.

Các thánh vẫn còn ở đây không xa chúng ta; và việc trưng bầy các ngài trong các nhà thờ gợi lên “đám mây nhân chứng” luôn vây quanh chúng ta (xem Dt 12: 1). Lúc bắt đầu, chúng ta đã nghe đoạn trích từ Thư gửi tín hữu Do Thái. Họ là các nhân chứng mà chúng ta không tôn thờ - nghĩa là chúng ta không tôn thờ các vị thánh này - nhưng là những vị được chúng ta tôn kính và là những vị, trong muôn ngàn cách khác nhau, đã đưa chúng ta đến với Chúa Giêsu Kitô, Chúa và Đấng Trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và nhân loại. Một “vị thánh” không đưa anh chị em đến với Chúa Giêsu thì không phải là một vị thánh, thậm chí không phải là một Kitô hữu. Một vị thánh phải làm cho anh chị em nhớ đến Chúa Giêsu Kitô vì ngài từng bước trên con đường sống như một Kitô hữu. Các thánh nhắc nhở chúng ta rằng ngay trong cuộc sống của chúng ta, dù yếu đuối và đầy tội lỗi, sự thánh thiện vẫn có thể khai mở. Dù vào thời điểm sau cùng. Thực thế, chúng ta đọc trong Tin Mừng rằng vị thánh đầu tiên được chính Chúa Giêsu phong thánh là một tên trộm, không phải là một Giáo hoàng. Sự thánh thiện là một hành trình của cuộc đời, một cuộc gặp gỡ dài hay ngắn hoặc tức thời với Chúa Giêsu. Nhưng họ luôn luôn là một nhân chứng, một vị thánh là một nhân chứng, một người nam hay người nữ đã gặp Chúa Giêsu và đi theo Chúa Giêsu. Không bao giờ là quá muộn để quay về với Chúa, Đấng tốt lành và cao cả trong tình yêu thương (xem Thánh vịnh 103,8)
...
Cách đầu tiên để đương đầu với thời điểm lo âu xao xuyến là xin các anh chị em của chúng ta, trên hết là các thánh, cầu nguyện cho chúng ta. Tên được đặt cho chúng ta lúc Rửa tội không phải là một nhãn hiệu hay một vật trang trí! Đó thường là tên của Đức Trinh Nữ, hoặc một vị Thánh, những vị không mong điều gì khác hơn là “giúp chúng ta một tay” ở trong đời, giúp chúng ta một tay để có được ơn thánh của Thiên Chúa mà chúng ta rất cần. Nếu những thử thách của cuộc sống vẫn chưa đến mức cùng cực, nếu chúng ta vẫn còn khả năng kiên trì, nếu bất chấp mọi sự chúng ta vẫn tiến bước một cách phó thác, hơn là do công lao của chúng ta, có lẽ chúng ta mang ơn tất cả những điều này vì lời chuyển cầu của tất cả các thánh, trong đó, một số vị đang ở trên Thiên đàng, một số khác đang lữ hành như chúng ta trên thế gian, những người đang bảo vệ và đồng hành với chúng ta, bởi vì tất cả chúng ta đều biết có những vị thánh ở đây trên trái đất này, những người nam nữ thánh thiện sống trong sự thánh thiện. Họ không biết điều đó; chúng ta cũng không biết điều đó. Nhưng có những vị thánh, những vị thánh thường ngày, những vị thánh ẩn dật, hay như tôi thích nói, “những vị thánh sống ở nhà bên cạnh”, những người chia sẻ cuộc sống của họ với chúng ta, những người làm việc với chúng ta và sống một cuộc sống thánh thiện.” (ĐTC Phanxicô, 07/04/2021)
Xem tiếp…

TÌM GẶP CHÚA PHỤC SINH (ĐTC Phanxicô, 05/04/2021)

tháng 4 07, 2024 |

“Anh chị em thân mến, chào buổi sáng
Thứ Hai sau Lễ Phục Sinh còn được gọi là Thứ Hai Thiên Thần vì chúng ta nhớ lại cuộc gặp gỡ của thiên thần với những người phụ nữ đến mộ Chúa Giêsu (x. Mt 28: 1-15). Thiên sứ nói với các bà: “Tôi biết các bà tìm Đức Giêsu, Đấng bị đóng đinh. Người không có ở đây, vì Người đã sống lại như Người đã phán”. (c. 5-6). Thành ngữ “Người đã sống lại” này vượt quá khả năng của con người. Ngay cả những người phụ nữ đã đi vào ngôi mộ và thấy nó trống rỗng cũng không thể xác nhận “Người đã sống lại”, nhưng họ chỉ có thể nói rằng ngôi mộ trống rỗng. “Người đã sống lại” là một thông điệp. Chỉ một thiên thần mới có thể nói rằng Chúa Giêsu đã sống lại, chỉ một thiên thần có thẩm quyền mang thông điệp của thiên đàng, với quyền năng được Chúa ban mới có thể nói điều đó, giống như một thiên thần đã có thể nói với Đức Maria: “Bà sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, và Người sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao” (Lc 1:31-32). Vì thế, chúng ta gọi ngày hôm nay là Thứ Hai của Thiên thần bởi vì chỉ có một thiên thần với quyền năng của Thiên Chúa mới có thể nói rằng Chúa Giêsu đã sống lại.
Thánh sử Matthêu thuật lại rằng vào buổi sáng Phục sinh “có một trận động đất lớn; vì một thiên sứ của Chúa từ trời xuống, đến lăn tảng đá và ngồi trên đó” (xem câu 2). Hòn đá lớn đó, được cho là dấu ấn chiến thắng cái ác và cái chết, được đặt dưới chân, nó trở thành bệ ngồi của thiên thần Chúa. Tất cả các kế hoạch và những mưu lược của những kẻ thù và những kẻ bách hại Chúa Giêsu đều ra vô ích. Tất cả các phong niêm đã vỡ vụn. Hình ảnh thiên thần ngồi trên đá trước lăng mộ là biểu hiện cụ thể, biểu hiện hữu hình của sự chiến thắng cái ác của Thiên Chúa, biểu hiện của sự chiến thắng của Chúa Kitô đối với hoàng tử của thế gian này, biểu hiện của sự chiến thắng của ánh sáng trước bóng tối. Ngôi mộ của Chúa Giêsu không được mở ra bởi một hiện tượng vật lý, mà bởi sự can thiệp của Chúa. Thánh Matthêu nói tiếp rằng sự xuất hiện của thiên thần “giống như ánh chớp, và y phục trắng như tuyết” (c. 3). Những chi tiết này là những biểu tượng xác nhận sự can thiệp của chính Thiên Chúa, Đấng đang mở ra một kỷ nguyên mới, là thời kỳ cuối cùng của lịch sử vì sự phục sinh của Chúa Giêsu đã khởi đầu cho thời kỳ cuối cùng, có thể kéo dài hàng nghìn năm trong lịch sử, nhưng đó là lần cuối cùng.
Có một phản ứng gồm hai mặt khi nhìn thấy sự can thiệp này của Thiên Chúa. Đó là những người lính canh không thể đối mặt với quyền năng áp đảo của Thiên Chúa và bị rung chuyển bởi một trận động đất bên trong: họ đờ người ra như những người chết (xem câu 4). Quyền năng của Chúa Phục sinh lật nhào những kẻ đã được sử dụng để bảo đảm chiến thắng rõ ràng của cái chết. Và những người bảo vệ đó đã phải làm gì? Đến gặp những người đã ra lệnh cho họ phải canh gác và nói ra sự thật. Họ có một lựa chọn để thực hiện: hoặc nói sự thật hoặc để bản thân bị thuyết phục bởi những người đã giao cho họ lệnh canh gác. Và cách duy nhất để thuyết phục họ là tiền. Và những người đáng thương đó, những người nghèo, đã bán sự thật, và với số tiền trong túi, họ tiếp tục nói: “Không, các môn đệ đến và cướp xác”. Tiền bán Chúa, ngay cả ở đây, trong biến cố phục sinh của Chúa Kitô, có khả năng phủ nhận sự thật. Phản ứng của những người phụ nữ thì khác vì họ được sứ thần Chúa mời gọi một cách rõ ràng là đừng sợ, và cuối cùng, các bà không sợ - “Đừng sợ!” (c. 5) và đừng tìm kiếm Chúa Giêsu trong mộ.
Chúng ta có thể gặt hái được một giáo huấn quý báu từ những lời của thiên sứ: chúng ta đừng bao giờ mệt mỏi khi tìm kiếm Chúa Kitô Phục sinh, Đấng ban sự sống dồi dào cho những ai gặp Ngài. Tìm kiếm Chúa Kitô có nghĩa là khám phá sự bình an trong tâm hồn chúng ta. Những người phụ nữ trong Tin Mừng cũng vậy, sau khi bị rúng động lúc đầu là điều thường tình có thể hiểu được, đã cảm thấy vui mừng tột độ khi phát hiện ra Thầy còn sống (xin xem các câu 8-9). Trong Mùa Phục Sinh này, ước muốn của tôi là mọi người có thể có cùng một kinh nghiệm thiêng liêng, khi đón nhận trong tâm hồn, trong nhà và trong các gia đình của chúng ta lời loan báo vui mừng về Lễ Phục Sinh: “Đức Kitô, đã sống lại từ trong cõi chết, nay Người không còn ở đây nữa; cái chết không còn quyền thống trị trên Người nữa” (Ca nhập lễ). Lời loan báo Phục sinh, Chúa Kitô đang sống, Chúa Kitô đồng hành với cuộc đời tôi, Chúa Kitô ở bên cạnh tôi. Chúa Kitô gõ cửa trái tim tôi để anh chị em có thể cho Người vào, Chúa Kitô đang sống. Trong những ngày lễ Phục sinh, sẽ là tốt cho chúng ta khi lặp lại điều này: Chúa vẫn đang sống.” (ĐTC Phanxicô, 05/04/2021)
Xem tiếp…

THÁNH THẦN ĐỔI MỚI… (ĐTC Phanxicô, giảng Lễ Dầu 2023:)

tháng 4 07, 2024 |

“Thần Khí Chúa ngự trên tôi” ( Lc 4,18). Chúa Giêsu bắt đầu rao giảng bằng câu này, cũng là câu bắt đầu bài đọc một ngày hôm nay (x. Is 61,1). Như thế, ngay từ đầu, Thánh Linh của Chúa đã hiện diện.
Anh em linh mục thân mến, hôm nay tôi muốn cùng anh em suy tư về Chúa Thánh Thần. Vì không có Thần Khí của Chúa thì không thể có đời

sống Kitô hữu; không có sự xức dầu của Ngài thì không thể có sự thánh khiết. Ngài ở trung tâm và điều thích hợp là hôm nay, vào ngày sinh nhật của chức linh mục, chúng ta ghi nhận sự hiện diện của Ngài ngay từ đầu thừa tác vụ của chúng ta, cũng như trong cuộc sống và sức sống của mỗi linh mục. Mẹ Giáo Hội dạy chúng ta tuyên xưng Chúa Thánh Thần là “Đấng ban sự sống”. Chúa Giêsu nói với chúng ta: “Chính Thần Khí làm cho sống “ ( Ga 6,63). Giáo huấn của Ngài đã được Tông Đồ Phaolô tiếp tục. Thánh nhân đã viết rằng “văn tự giết chết, nhưng Thánh Linh làm cho sống” (2 Cr 3,6) và là người đã nói về “luật của Thần Linh sự sống trong Chúa Giêsu Kitô” (Rôma 8,2).
Nếu không có Chúa Thánh Thần, Giáo hội sẽ không phải là Hiền thê sống động của Chúa Kitô, mà cùng lắm chỉ là một hiệp hội tôn giáo. Không phải là Thân thể của Chúa Kitô, mà là một ngôi đền do bàn tay con người xây dựng. Vậy làm sao chúng ta lại có thể xây dựng Giáo hội, nếu không bắt đầu từ sự kiện chúng ta là “đền thờ của Chúa Thánh Thần”, Đấng “ngự trong chúng ta” (x. 1 Cr 6,19; 3,16)? Chúng ta không thể khóa Thánh Linh không cho vào nhà chúng ta, hoặc nhốt Ngài trong một khu vực sùng đạo nào đó. Mỗi ngày chúng ta cần nói: “Thánh Thần xin ngự đến, vì không có sức mạnh của Ngài, chúng con sẽ lạc lối”.
Thần Khí Chúa ngự trên tôi. Mỗi người chúng ta đều có thể nói điều này, không phải do tự phụ mà là một thực tế. Mọi Kitô hữu, và đặc biệt là các linh mục, đều có thể áp dụng cho mình những lời sau đây: “vì Chúa đã xức dầu cho tôi” ( Is 61,1). Anh em thân mến, không phải vì công trạng của chúng ta, nhưng hoàn toàn nhờ ân sủng, chúng ta đã lãnh nhận một phép xức dầu khiến chúng ta trở thành những người cha và những mục tử giữa Dân thánh của Thiên Chúa. Vậy thì chúng ta hãy suy nghĩ về khía cạnh này của Thánh Linh: sự xức dầu của Ngài.
Sau khi đã xức dầu lần đầu cho Ngài, diễn ra trong cung lòng Đức Maria, Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Chúa Giêsu ở sông Giođan. Sau đó, như Thánh Basilô giải thích, “mọi hành động của Chúa Kitô được thực hiện với sự đồng hiện diện của Chúa Thánh Thần”. Trong quyền năng của sự xức dầu này, Chúa Giêsu rao giảng và làm các dấu lạ; nhờ việc xức dầu ấy, “có một sức mạnh phát ra từ Người và chữa lành mọi người” ( Lc 6,19). Chúa Giêsu và Thánh Thần luôn cộng tác với nhau, như hai bàn tay của Chúa Cha dang ra ôm lấy chúng ta và nâng chúng ta lên. Bằng những bàn tay đó, bàn tay của chính chúng ta đã được đóng ấn, được xức dầu bởi Thánh Linh của Chúa Kitô. Vâng, thưa anh em, Chúa không những đã chọn và kêu gọi chúng ta: Người đã đổ xuống trên chúng ta sự xức dầu của Chúa Thánh Thần, cũng chính là Thần Khí đã ngự xuống trên các tông đồ.
Bây giờ chúng ta hãy chú ý đến các ngài, đến các tông đồ. Chúa Giêsu đã chọn các ngài và theo tiếng gọi của Người, các ngài đã bỏ thuyền, bỏ lưới và bỏ nhà cửa. Sự xức dầu của Ngôi Lời đã thay đổi cuộc đời các ngài. Với lòng nhiệt thành cao độ, các ngài đi theo Thầy và bắt đầu thuyết giảng, tin chắc rằng các ngài sẽ tiếp tục hoàn thành những điều vĩ đại hơn nữa. Rồi đến Lễ Vượt Qua. Mọi thứ dường như dừng lại: thậm chí các môn đệ còn chối bỏ và bỏ rơi Thầy mình. Các ngài đã hiểu rõ về thất bại của chính mình; các ngài nhận ra rằng các ngài đã không hiểu Chúa Giêsu. Những lời mà Phêrô đã thốt ra trong sân của vị thượng tế sau Bữa Tiệc Ly – “Tôi không biết người này” ( Mc 14,71) – không chỉ là một nỗ lực bốc đồng để tự vệ, mà còn là một sự thú nhận về sự thiếu hiểu biết thiêng liêng.
Có lẽ Thánh Phêrô và những người khác mong đợi một cuộc đời vinh quang đằng sau Đấng Mêsia, Đấng đã thu hút đám đông và làm nên những điều kỳ diệu, nhưng các Tông đồ không hiểu được tai tiếng của thập tự giá, là điều đã khiến những xác tín của các ngài sụp đổ. Chúa Giêsu biết rằng các môn đệ sẽ không thành công nếu chỉ tự làm một mình, nên Ngài hứa sẽ gửi Đấng Phù Trợ đến cho các môn đệ. Chính “việc xức dầu lần thứ hai” vào Lễ Hiện Xuống đã thay đổi các môn đệ và dẫn các ngài đến việc chăn dắt không còn là chính họ mà là đoàn chiên của Chúa. Chính sự xức dầu đó bằng lửa đã dập tắt một “lòng mộ đạo” tập trung vào bản thân và khả năng của chính họ. Sau khi nhận được Thánh Thần, nỗi sợ hãi và dao động của Phêrô tiêu tan; Giacôbê và Gioan, với khát khao hiến dâng mạng sống cháy bỏng, đã không còn tìm kiếm những nơi danh giá (x. Mc 10,35-45); những người khác từng sợ hãi rúc vào Phòng Tiệc Ly, đã đi vào thế giới với tư cách là Tông Đồ…”
Xem tiếp…

ĐỨC TIN LÃNH NHẬN THÁNH THỂ (ĐHY Raniero Cantalamessa, 31/03/2022)

tháng 4 06, 2024 |


“Đức tin không “làm” nên bí tích mà chỉ “lãnh nhận” bí tích. Chỉ lời của Đức Kitô được Hội thánh lặp lại và được Chúa Thánh Thần thực hiện mới “làm nên” bí tích mà thôi. Nhưng bí tích sẽ có ích lợi gì nếu như bí tích không được chúng ta “lãnh nhận”? Về việc Nhập thể, những người như Ôrigen, thánh Augustinô, thánh Bênađô, đã bày tỏ suy tư này: “Đức Kitô đã được sinh ra một lần bởi Đức Maria, tại Bêlem, nhưng nếu Người không tiếp tục được sinh ra trong tâm hồn tôi, bởi đức tin, thì liệu có ích gì cho tôi chăng?” Điều tương tự cũng phải được nói về Bí tích Thánh Thể như thế; Đức Kitô thực sự hiện diện trên bàn thờ có ích gì cho tôi nếu như không phải là Người hiện diện với tôi và cho tôi? Ngay tại thời điểm Chúa Giêsu hiện diện trần gian, đức tin là cần thiết; Sự hiện diện của Người sẽ chẳng đem lại lợi ích chi đối với những kẻ không tin, ngoại trừ như một lời kết án, như chính Người đã lặp lại nhiều lần trong Tin Mừng rằng: “Khốn cho ngươi, hỡi Kho-ra-din! khốn cho ngươi, hỡi Ca-phác-na-um!” (Mt 11,21-23).
Đức tin là một điều cần thiết để làm cho sự hiện diện của Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể không chỉ là chắc chắn “đích thực”, mà còn mang tính “riêng tư cá nhân”, nghĩa là một sự hiện diện sống động gặp gỡ giữa hai chủ thể, diện đối diện. “Sự hiện diện” sống động thì khác với việc “ở lại đó” một cách thụ động, vô hồn. Sự hiện diện đặt ra trước một người đang có mặt với người kia, sự hiện diện này giả định rằng phải có một sự tương giao kết nối với nhau, một sự trao đổi giữa hai chủ thể tự do nhận thức và cởi mở đối với nhau. Vì thế, sự hiện diện này mang nhiều ý nghĩa tương tác hơn là chỉ ở lại một nơi nhất định nào đó, mà không đem lại ý nghĩa gì…
Đức tin vào sự hiện diện đích thực chính là một điều tuyệt vời, nhưng điều đó chưa đủ đối với chúng ta; ít nhất là đức tin được hiểu theo một cách nào đó. Ý tưởng cởi mở và hoàn hảo về mặt đại kết, về mặt thần học, về sự hiện diện đích thực của Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể là chưa đủ. Có biết bao trong số các nhà thần học biết mọi điều về mầu nhiệm này; nhưng họ lại không biết tới “sự hiện diện thật”. Bởi vì theo nghĩa Kinh Thánh thì “biết” một điều, chính là những người đã kinh nghiệm về điều đó rồi. Chỉ những ai, ít nhất hơn một lần, đã thực sự chạm vào lửa thì mới biết được lửa là gì…
Từ đức tin và “cảm tình” đối với sự hiện diện thực sự, lòng tôn kính phải tự phát xuất hiện, và thực sự, một cảm giác dịu dàng đối với Chúa Giêsu trong Bí tích. Đây là một tình cảm cá vị và tế nhị đến mức lời nói thậm chí có thể phá hủy nó. Thánh Phanxicô Assisi có điều gì đó muốn nói với chúng ta vào thời điểm này. Trái tim ngài tràn ngập những tình cảm tôn kính và dịu dàng. Ngài đã cảm động trước Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể, cũng như ngài đã xúc động trước Hài Nhi ở Bethlehem. Thánh nhân thấy Chúa thật bất lực, thật phó thác cho nhân loại, thật khiêm tốn. Trong Thư gửi tất cả các anh em, ngài viết những lời đầy lửa mà chúng ta muốn nghe bây giờ khi chúng ta khi kết thúc bài suy niệm về sự hiện diện thực sự của Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể:
Hãy xem xét phẩm giá của anh em, các thầy, và các linh mục, và hãy thánh thiện vì chính Ngài là thánh… Thật là một sự khốn khổ và yếu đuối đáng trách khi anh em có Ngài hiện diện như thế mà lại lo toan cho bất cứ điều gì khác trên thế gian này. Hãy để cho toàn bộ nhân loại co rúm vì sợ hãi; cả thế giới run sợ; hãy để thiên đàng hân hoan khi Chúa Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống, ngự trên bàn thờ trong tay của thầy cả tế lễ. Ôi cao vời đáng ngưỡng mộ và uy phong tuyệt vời! Ôi khiêm nhường siêu phàm! Ôi khiêm nhường cao cả! Chúa của vũ trụ, Thiên Chúa và là Con Chúa Cha, tự hạ mình đến mức để cứu rỗi chúng ta, Ngài đã ẩn mình dưới một tấm bánh. Hỡi anh em, hãy xem xét sự khiêm nhường của Thiên Chúa và “hãy đổ hết lòng mình ra trước mặt Ngài, và hãy hạ mình để được Ngài tôn cao. Vì vậy, đừng giữ lại bất cứ điều gì cho riêng mình để Ngài, Đấng tự hiến hoàn toàn cho anh em, có thể tiếp nhận anh em một cách trọn vẹn.” (ĐHY Raniero Cantalamessa, 31/03/2022)
Xem tiếp…

“…NHỜ ĐỨC KITÔ CHÚA CHÚNG CON” (Trích bài diễn giải Thánh vịnh của thánh Âu-tinh, giám mục)

tháng 4 06, 2024 |


Trích bài diễn giải Thánh vịnh của thánh Âu-tinh, giám mục:
“Thiên Chúa đã dùng Ngôi Lời của Người để tạo thành vũ trụ ; Thiên Chúa không thể ban cho nhân loại ân huệ nào lớn hơn là làm cho Ngôi Lời trở nên Đầu của nhân loại và nhân loại trở nên chi thể của Ngôi Lời, tức là Đức Ki-tô, khiến Đức Ki-tô vừa là Con Thiên Chúa vừa là con loài người. Đức Ki-tô là Thiên Chúa duy nhất cùng với Chúa Cha, và cũng là một người ở giữa loài người. Bởi đó, khi thân thưa với Thiên Chúa qua lời cầu nguyện, chúng ta không tách biệt Chúa Con ra khỏi Chúa Cha.
Cũng vì vậy, khi Thân Thể mầu nhiệm của Đức Ki-tô là Hội Thánh cầu nguyện, thì không tách biệt Đấng là đầu với Hội Thánh là thân. Cuối cùng, Đức Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa, Chúa chúng ta, Đấng Cứu Chuộc duy nhất của thân thể mầu nhiệm, là Đấng vừa cầu nguyện cho chúng ta, vừa cầu nguyện trong chúng ta, lại là Đấng chúng ta kêu cầu.
Người cầu nguyện cho chúng ta với tư cách là tư tế ; Người cầu nguyện trong chúng ta với tư cách là đầu ; và là Đấng chúng ta kêu cầu, vì Người là Thiên Chúa chúng ta. Vậy chúng ta hãy nhận ra tiếng nói của mình nơi Người và tiếng nói của Người nơi chúng ta…
Vậy trong cương vị Thiên Chúa, Người là Đấng ta kêu cầu ; trong thân phận tôi đòi, chính Người lại cầu xin. Ở trên, Người là Đấng Hoá Công, ở đây, Người là loài thụ tạo. Người là Đấng bất biến đã mang lấy thân phận phải đổi thay.
Người làm cho chúng ta cùng với Người trở nên con người toàn diện, có đầu có thân. Vì thế, chúng ta cầu xin Người, nhờ Người và trong Người. Chúng ta nói cùng với Người. Và Người nói cùng với chúng ta.”
Xem tiếp…

THÁNH LỄ-THÁNH THỂ (ĐHY Raniero Cantalamessa: bài giảng thứ 4, 01/04/2022)

tháng 4 05, 2024 |


Thánh Lễ là cử hà bí tích Thánh Thể. Tĩnh tâm giáo triều năm nay (2022), ĐHY Raniero Cantalamessa có 4 bài giảng đều nói đến cử hành Thánh Thể, điều này nhắc ta sự cao cả và rất quan trọng của Thánh Lễ hằng ngày. Hiệp thông tĩnh tâm với giáo triều giúp ta yêu quí Thánh Thể và siêng năng tham dự Thánh Lễ hơn:

“…Theo nhãn quan của thần học và phụng vụ Công giáo Latinh, thời điểm truyền phép là trọng tâm không thể chối cãi của việc cử hành Bí tích Thánh Thể, từ đó chúng ta có sự hiện diện đích thực của Chúa Kitô. Trong đó, chính Chúa Giêsu cử hành và truyền lệnh ở ngôi thứ nhất. Chẳng hạn như thánh Ambrôsiô đã nói rằng: “Trước khi được truyền phép thì bánh này vẫn là bánh; nhưng ngay khi lời truyền phép được thực hiện, thì bánh đã biến bản thể, trở thành Mình Chúa Kitô…
Vậy việc truyền phép này được thực hiện bằng những lời nào? và những lời ấy là của ai? Thưa, đó là những lời của chính Chúa Giêsu! Tất cả những lời nguyện được đọc trước giây phút đó đều là do vị linh mục thưa lên để ngợi khen Thiên Chúa, để cầu nguyện cho dân chúng, cho các nhà lãnh đạo và cho những người khác; nhưng khi đến thời điểm truyền phép Thánh Thể, thì vị linh mục không còn dùng lời của mình nữa, mà dùng lời của chính Đức Kitô. Do đó, chính những lời của Chúa Kitô đã làm nên (conficit) bí tích này... Bạn có biết rằng những lời truyền phép của Chúa Giêsu Kitô có hiệu quả (operatorius) như thế nào không? Trước khi truyền phép thì chưa phải là Mình Chúa Kitô, nhưng sau khi truyền phép, tôi nói với bạn rằng, từ lúc đó chính là Mình Chúa Kitô. ‘Vì Người đã phán, và muôn loài xuất hiện, Người ra lệnh truyền, tất cả được dựng nên’ (Tv 33,9)” (thánh Ambrôsiô, Các Bí tích – De Sacramentis, IV, 14-16 (PL 16,439tt)…
Đức Kitô vừa là đối tượng vừa là chủ thể của Bí tích Thánh Thể, nghĩa là Đấng được thực hiện trong Bí tích Thánh Thể và cũng chính là Đấng thực hiện Bí tích Thánh Thể. “Tính hiện thực” là bởi vì không những được nhìn thấy sự hiện diện của Chúa Giêsu trên bàn thờ, trong một dấu chỉ hoặc biểu tượng, mà còn trong sự thật và với thực tại riêng của Người nữa. Để có thể thấy rõ được tính hiện thực Kitô học này, chúng ta đưa ra một ví dụ, trong bài thánh ca “Kính Mừng Thân Thể Thật – Ave Verum Corpus”, trong đó Thánh Thể Chúa Kitô được ca ngợi là “thân xác thật, sinh ra từ Đức Trinh Nữ Maria, Người đã bị sát tế trên thập giá, và cạnh sườn Người đã bị đâm thâu, để máu cùng nước chảy ra...”
Thật vậy, nói rằng Chúa Giêsu làm cho mình hiện diện trong Bí tích Thánh Thể với bản thể của Người, nghĩa là nói rằng, Người hiện diện với thực tại chân chính và sâu xa của Người, mà chỉ có thể đạt được nhờ đức tin. Trong bài thánh ca Adoro Te devote, phản ánh chặt chẽ tư tưởng của thánh Tôma Aquinô về Thánh Thể, và đã phục vụ hơn nhiều cuốn sách để định hình lòng đạo đức Thánh Thể trong Hội thánh Latinh, người ta nói: “Thị giác, xúc giác và vị giác, mọi thứ đều thất bại ở đây. Chỉ còn đức tin vào Lời Chúa mà thôi” – “Visus tactus gustus in te fallitur - sed Auditui solo tutorial creditur”.
Do đó, Chúa Giêsu hiện diện trong Bí tích Thánh Thể một cách độc nhất vô nhị, không có ở nơi nào khác. Không một tính từ nào là đủ để mô tả sự hiện diện này; thậm chí không phải là tính từ “đích thực”. Từ ngữ hiện diện “đích thực” xuất phát từ res (sự việc) và có nghĩa là: bởi một sự việc hoặc một sự vật; nhưng Chúa Giêsu không hiện diện trong Bí tích Thánh Thể như một “sự việc” hay một sự vật, song chính là một con người. Nếu bạn thực sự muốn đặt tên cho sự hiện diện này, thì tốt hơn là chỉ nên gọi đó là sự hiện diện “Thánh Thể”, bởi vì điều này chỉ được thực hiện trong Bí tích Thánh Thể mà thôi…” (bài giảng thứ 4, 01/04/2022)
Xem tiếp…

CHÚA ĐÃ SỐNG LẠI (ĐTC Phanxicô, giảng lễ Vọng Phục Sinh 03/04/2021)

tháng 4 04, 2024 |

CHÚA ĐÃ SỐNG LẠI
“Những người phụ nữ nghĩ rằng họ sẽ tìm thấy xác Chúa để xức dầu, nhưng thay vào đó họ lại tìm thấy một ngôi mộ trống. Họ đã đi để than khóc một người đã chết, nhưng họ lại nghe thấy một thông báo về sự sống. Vì thế, Tin Mừng cho biết, những người phụ nữ đó “đầy sợ hãi và kinh ngạc”, đầy sợ hãi, run rẩy và đầy kinh ngạc. Kinh ngạc: trong trường hợp này là sự sợ hãi xen lẫn vui mừng, khiến họ ngạc nhiên khi thấy tảng đá lớn của ngôi mộ đã bị lăn qua một bên và thấy một chàng trai mặc áo choàng trắng. Thật là ngạc nhiên khi nghe những lời đó: “Các bà đừng sợ: Các bà đi tìm Chúa Giêsu Nagiarét chịu đóng đinh, nhưng Người đã sống lại”
...
Chúa Giêsu không phải là một nhân vật lỗi thời. Ngài vẫn sống, ở đây và bây giờ. Ngài đi bên cạnh anh chị em mỗi ngày, trong hoàn cảnh anh chị em đang trải qua, trong thử thách anh chị em đang phải đối diện, trong những giấc mơ mà anh chị em ấp ủ trong lòng.
...
Chúa Giêsu, Chúa Phục sinh, yêu thương chúng ta vô bờ bến và thăm viếng từng hoàn cảnh sống của chúng ta. Ngài hiện diện giữa lòng thế giới và mời gọi chúng ta vượt qua những rào cản, vượt qua những định kiến, đến gần những người xung quanh mỗi ngày, để khám phá lại ân sủng của cuộc sống hàng ngày. Chúng ta hãy nhận ra Chúa Phục sinh hiện diện trong Galilêa của chúng ta, trong cuộc sống hàng ngày. Với Ngài, cuộc sống sẽ thay đổi. Bởi vì vượt lên trên mọi thất bại, xấu xa và bạo lực, vượt qua mọi đau khổ và chết chóc, Chúa Phục sinh đang sống và Chúa Phục sinh đang hướng dẫn lịch sử.
Anh chị em thân mến, nếu trong đêm nay, anh chị em mang trong lòng mình một giờ khắc đen tối, một ngày chưa ló rạng, một ánh sáng bị chôn vùi, một giấc mơ tan vỡ, thì hãy đi, hãy mở rộng trái tim của anh chị em với sự ngạc nhiên trước thông điệp của Lễ Phục Sinh: Chúa đã sống lại! Ngài đang đợi anh chị em ở Galilêa. Kỳ vọng của anh chị em sẽ không còn dang dở, nước mắt của anh chị em sẽ được lau khô, nỗi sợ hãi của anh chị em sẽ được vượt qua bằng hy vọng. Bởi vì, anh chị em biết đấy, Chúa luôn đi trước anh chị em, luôn đi trước anh chị em. Và, với Người, cuộc sống luôn bắt đầu lại.” (ĐTC Phanxicô, giảng lễ Vọng Phục Sinh 03/04/2021)
Xem tiếp…